Chương 1: Tiếm bình

Tiếm bình Nước ta xưa có nước Việt Thường, nói thì uốn lưỡi, thân hình vẽ rồng, phong túc phác lậu, đại khái như thổ dân các châu động ngày nay. Từ khi Triệu Đà cai trị bảy quận, đem Thi, Thư giáo huấn quốc tục, Nhâm Diên làmThái thú Cửu Chân lại đem lễ nghĩa dạy dỗ quốc dân, bởi vậy, nước ta mới dần dần hiểu biết văn tự có ích cho người, lễ nghĩa quan hệ đến phong tục, cái đà văn minh cũng do đấy dần dần tiến triển. Kịp đến lúc Sĩ Phủ Quân đem sóng dư của sông Thù sông Tứ tràn dần qua Nam Hải, bàn việc trở đầu trong hội can qua, gảy đờn ca ở làng hầu hến, người nghe điếc tai vì tiếng chuông, thanh giáo phổ cập đến đâulà đấy hấpthụ được hoa phong. Sau này, triều Lý, triều Trần, triều Lê thay đổi nhau dựng trường học, đặt khoa thi, văntrị bột phát trên dưới vài nghìn nămtrămnăm, nhân tài bối xuất, bèn xưng là nước văn hiến, hoán tỉnh lòng người, huy đẳng thượng quốc. Sử gọi văn phong Lĩnh Nam, bắt đầu từ Sĩ Vương thì công ấy há chẳng tốt đẹp lắm ru? Đang lúc ấy, tam quốc chia thành thế chân vạc, trung nguyên như nồi canh sôi, duy nước ta một phương được nhờ yên ổn, những kẻ danh hiền, đạt nhân nghe tiếng mà đến, làm thành một nơi văn vật đô hội lừng lẫy. Vương, phương Bắc thờ nhà Đại Hán, phương Đông đẹp lòng Cường Ngô, anh em đều làm chủ các quận, vinh diệu một thời, hàn mặc lừng lẫy. Vương hiệu là do cửa miệng của người trong châu xưng hô, chứ Vương không hề ngang nhiên dám tự tôn đại, như Nam Hải Úy Đà cỡi xe hoàn gốc, cắm cờ tả đạo. Sách rằng: “Sợ mệnh trời, giữ được nước” Vương thực là đúng, còn như chuông trống, xe cộ, nghi vệ ra vào ấy chẳng có gì là lạm. Bôn mươi tám nămở quận, hưởng thọ hơn chín mươi năm, sống có vinh danh, chết được hiển hiện, oanh oanh liệt liệt một trường giữ tròn chung thủy, ít thấy ai được như vậy. Tập U Linh có chép vài việc, người đời sau hiếu ký thêm vào, tương truyền rằng: Vương sinh tiền dạy học trò đến vài nghìn người, sau khi mất, có di chúc chôn sấp chứ đừng chôn ngửa thì tiếng giảng sách mới không có, nhưng sau học trò không nỡ làmnhư thế, cứ chiếu lệ thường mà khăn liệm. Mỗi khi đêm lặng trăng sáng thường nghe tiếng Vương giảng sách ở dưới mồ như lúc bình sinh dạy học. Người Tàu thấy Vương linh dị, sợ hãi mới đào mộ Vương lên chôn sấp lại, từ đấy không nghe tiếng giảng sách nữa. Thuyết ấy quá ư quái đản, không chắc đã đúng. Nay miếu tại sông Thanh Tương, huyện Siếu Loại, mấy triều đều có phong tặng, còn mộ ở làng Tam Á huyện Gia Định, gò đóng bao bọc, cây cỏ um tùm, dân chúng ở quanh vùng có việc đến cầu đảo đều có linh ứng. Ngoài đường thiên lý có đình thờ vọng, giữa treo bức biến đề bốn chữ “Nam Giao Học Tổ”, đúc ngựa đồng để thờ, người đi đường đều phải xuống ngựa cúi đầu. Bạch Phương Am tiên sinh, có đặt cho làng đómột câu đối thờ ở đình rằng: Việt điện văn tông sau Thù, Tứ. Nam giao học tổ trước Lạc, Mân.
ḱyhuyen.comCũng là tuyên dương công nghiệp Vương đã đem văn hóa dạy cho dân vậy. Xét người đời xưa hay cữ tên chứ không cữ họ, nay hai huyện Siêu Loại và Gia Định ở gần đều có chữ Sĩ, rồi tên cũng có luôn, thành ra mất cả họ tên, như thế thực là quê lậu, cũng như người huyện Đông An có tên Chử Đồng Tử, lại lấy chữ Tử là húy mà cứ thì cũng giống như đây.
Hãy tắt ads block nếu nội dung không được hiển thị